Việt Nam là quốc gia vùng nhiệt đới, vì vậy là nơi đa dạng về họ tre trúc với 194 loài tre trúc thuộc 26 chi và đứng thứ 4 trên thế giới về diện tích trồng tre trúc. Đa dạng về loài, nhưng có một vài loài sau đây là phổ biến và được sử dụng làm nguyên liệu trong các ngành chế biến, mỹ nghệ, kiến trúc với những đặc điểm từng loài như sau:
1. Tre
Tre thuộc họ Hòa thảo, phân bố phổ biển khắp các tỉnh trên cả nước. Thân cây rỗng, thân cao, mọc thành bụi và bụi tách riêng nhau.
Thân cây có thành dày. Canh phát triển từ các mắt trên đốt thân. Tre có nhiều loài và thường gặp như: Tre gai, tre lồ ô, tre là ngà, tre hoa, tre lộc ngộc,… Tre được sử dụng rộng rãi để làm nhà, làm nông cụ, làm đồ mỹ nghệ, làm hàng rào.
2. Tre gai (tên khác Tre nhà, Tre hóa, May phiếu, Tre là ngà)
Tre gai thuộc họ Hòa thảo, được trồng khắp cả nước. Cây mọc thành cụm rất dày, gồm nhiều thân cây cao 15 – 20m, đường kính thân đạt 8 – 10cm, thân khí sinh có ngọn cong ngắn, lá nhỏ, rất nhiều gai. Lóng thân dài 10 – 15cm. Vách thân dài 1,8 – 2cm. Thân không được thẳng. Đốt thân hơi phình, vòng mo rõ, có vòng phấn trắng ở trên và dưới vòng mo. Mỗi đốt thân có 3 cành chính, đùi gà cành to có nhiều rễ, cành dày đặc ngay từ gốc. Trên cành có nhiều gai cứng, sắc, nhất là những cành ở gần gốc. Vòng mo hơi nhô cao. Bẹ mo hình thang có cạnh hai bên hơi cong, mặt ngoài nhiều gân dọc và phủ một lớp lông cứng màu nâu đen. Đáy dưới bẹ mo rộng 28cm, đáy trên rộng 8 – 10cm, cao 20cm. Phiến mo hình ngọn giáo, đỉnh vút nhọn, mặt trong có nhiều lông. Phiến mo rộng 3 – 5cm, dài 0,6cm, mặt trong có gân nổi rõ và phủ lông cứng ngắn, mặt ngoài nhẵn. Lá hình ngọn giáo, dài 20 – 25cm, rộng 1,5 – 2,5m, đầu vút nhọn, gốc lá tròn. Lá có cuống, tai lá rõ rệt. Gân lá 6 đôi. Lưỡi lá ngắn, có lông tua mềm dài 0,6cm ở hai bên tai lá. Tai lá không rõ. Cuống lá cao 0,5cm, rộng 0,1cm.
Tre gai được trồng quanh làng xóm, quanh vườn nhà, dưới chân đồi, ven sông, chân đê để phòng hộ, bảo vệ đồng ruộng, chống xói lở, chắn sóng. Tre gai được dùng làm vật liệu xây dựng, làm nhà và chôn xuống dưới đất làm móng nhà, đan lát thúng, mủng, rổ rá, làm nguyên liệu giấy và nhiều vật dụng khác.
3. Tre nứa
Tre nứa thuộc Họ Hòa thảo (Poaceae), và là loài đa dạng ở Việt Nam. Thân cây cỡ vừa, cao 10 – 15m, đường kính 10 – 25cm. Thân dạng ống, có đốt, có thân ngầm trong đất. Lá hình thuôn dài, có các đường gân song song. Cành phân chia 2 hoặc nhiều hơn, phát triển từ các mặt trên đốt thân. Cụm hoa hình bông. Hoa có mày nhỏ. Quả thóc. Cây tái sinh từ 1 đoạn thân hoặc 1 đoạn cành. Cây có thể mọc riêng lẻ hoặc mọc thành rừng, thường mọc thành cụm nhiều cây. Phân họ Tre nứa có khoảng 50 chi, 2200 loài. Ở Việt Nam có khoảng 10 chi, 45 loài. Phổ biến là chi Tre, chi Nứa, chi Sặt, chi Luồng,…
Tre nứa có nhiều công dụng và được trồng rộng rãi trong nông thôn. Tre nứa được trồng tập trung để làm nguyên liệu giấy, cót ép, hàng đan,…
4. Tre pheo
Tre pheo thuộc Họ Hòa thảo, được trồng ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Tre có gai, thân ngầm hợp trục, thân tre mọc cụm, cao 12 – 24m, đường kính 5 – 15cm, lóng dài 20 – 30cm, khi non màu lục, không có lông, khi già chuyển thành màu nõn chuối hơi vàng, thịt tre dày, độ rỗng nhỏ. Vòng thân không rõ ràng, vòng mo hơi cao và có một vòng lông nhung màu nâu sẫm. Mỗi mặt thường có 3 cành gần như vuông góc với thân chính, trên mỗi mắt của cành thường có 2 – 3 gai. Mo nang dày, cứng, phía ngoài có nhiều gân dọc, phần dưới có nhiều lông, mặt trong có nhiều gân dọc và gân ngang nổi rõ. Đầu bẹ mo rộng, thìa lìa cao, mép có lông. Tai mo hình bán nguyệt, mặt trong có nhiều lông cứng, mép có lông dài. Lá mo hình trứng, đầu nhọn, dựng đứng và tồn tại trên bẹ mo, mặt trong có nhiều gân dọc, kẽ giữa các đường gân phủ dày lông cứng màu nâu đen. Mỗi cành nhánh có 6 – 8 lá, phiến lá hình ngọn giáo thuôn, đầu nhọn, dài 15 – 17cm, rộng 1 – 2cm, gốc lá lệch, mặt trên không có lông, mặt dưới có lông ngắn, gân bên 4 – 7 đôi, cuống lá dài 1 – 3mm, bẹ lá dài 2 – 2,5cm không có lông, miệng bẹ có lông nhưng rất dễ rụng, thìa lìa cao 0,5 – 1mm. Cụm hoa dài 30 – 50cm không có lá, các đốt dài 2 – 5cm. Các bông chét mọc tập trung ở trên các đốt. Bông chét có 3 – 8 lá bắc hình trứng
Tre pheo có thân cao to, dày, cứng, thường được dùng trong xây dựng, làm bè mảng, đan lát. Nhưng dễ bị mối mọt nên phải xử lí cẩn thận trước khi dùng.
5. Tầm vông
Tầm vôngHọ Hòa thảo, được trồng phổ biến ở Nam Bộ Việt Nam và phân bổ ở các nước như Ấn Độ, Indonesia.Tầm vông mọc thành cụm, thân cao 6 – 20m, đường kính 2 – 7,5cm, lóng tròn đều, dài 30 – 45cm. Khi non có phấn trắng, vách thân rất dày, những lóng phía gốc đặc. Các đốt phía dưới thường có cành ngắn, và ít, các đốt phía trên có nhiều cành, trong đó có 3 – 6 cành chính. Mo nang khá thay đổi, hơi ngắn hơn các gióng, phía đầu tròn đều, mặt ngoài nhẵn hoặc có lông màu vàng nâu, tai mo khá rõ, thìa lìa rất ngắn. Lá mo hình ngọn giáo, dài bằng 1/3 mo. Những lá mo dài 5 – 12cm, rộng 1 – 2cm, lá lớn dài 7,5 – 25cm, rộng 1,5 – 3cm, mặt trên không có lông, mặt dưới có lông, gân bên 3 – 5 đôi, mép lá có răng cưa, bẹ lá khi non có lông, trưởng thành nhẵn, màu trắng hoặc màu vàng rơm. Hoa tự hình chùa, lớn; Bông chét màu vàng rơm, hình trái xoan, đính tập trung trên các đốt thành hình cầu (đường kính 1,3 – 5,5cm).
Tầm vông có thân cứng, thường được dùng trong xây dựng nhà cửa, làm giường, ghế, chõng tre, đan lát và cũng được trồng làm cảnh.
6. Lồ ồ
Lồ ô họHòa thảo (Poaceae), phân bố chủ yếu ở miền Đông Nam bộ, tập trung nhất là ở Đồng Phú, Phước Long.Tre không gai, thân ngầm hợp trục, thân tre mọc thành bụi thưa.Thân cao 10 – 15m, đường kính 10 – 12cm; lóng dài 30 – 90cm (các lóng ở giữa dài 80 – 90cm, ở gốc dài 30 – 50cm). Khi non màu lụa bạc do phủ lông trắng. Mỗi mắt có nhiều cành, thường chỉ có một cành chính, dài tới 2,5 – 3m. Mo lớn, mặt ngoài có lông màu nâu, mặt trong nhẵn. Tai mô không phát triển. Lá mo hình trứng ngọn giáo, lật ra ngoài, có gân rõ ở cả hai mặt. Lá hình ngọn giáo, dài 20 – 30cm, rộng 2 – 4cm, đầu nhọn, gốc tròn, nhẵn, gân bên 12 đôi. Cụm hoa hình chùy có nhiều nhánh dài, mảnh mỗi đốt có 3 – 5 bông lá chét. Bông chét màu xanh hay tím, hơi dẹt, dài 1,5 – 2,5cm, có 5 – 7 hoa, các hoa ở đỉnh và gốc
Lồ ô đượcdùng trong đan lát, làm đũa xuất khẩu, xây dựng, nhất là làm bột giấy, lá thường làm thức ăn cho gia súc.
7. Hóp
Hóp thuộc Họ Hòa thảo, cây mọc nhiều ở các tỉnh Trung bộ và các nước trên thế giới: Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia, Nhật Bản.Tre không gai, thân ngầm hợp trục, thân tre mọc thành bụi khá dày, cao 6 – 7m, đường kính 3 – 4cm, lóng dài 30 – 40cm, nhẵn bóng, khi non màu lục, khi già chuyển sang màu vàng rơm hay vàng nõn chuối. Mỗi mắt mang nhiều cành, nhưng chỉ có một đến 3 cành chính. Mo hơi cứng, dài 10 – 15cm, rộng 5 – 7,5cm, hơi có lông. Khi non màu xanh, đầu bẹ mo hình cái cung không đều. Lá mo dựng đứng hình tam giác. Hai tai hơi rõ, có lông, gốc tròn và nhỏ dần thành một cuống lá ngắn, mặt trên nhẵn, mặt dưới hơi có lông, gân giữa nhỏ, gân bên 5 – 7 đôi, bẹ lá nhẵn, thường có tai, thìa lìa hẹp, nguyên. Cụm hoa thành chùy kép, khá ngắn gồm từ 1 đến nhiều bông chét. Bông chét hình trụ tròn, dài 1 – 4,5cm, màu vàng rơm, nhẵn bóng, có 5 – 9 hoa.
Hóp được dung để đan lát, sào chống thuyền và dùng trong xây dựng địa phương.
8. Cây tre vàng sọc ( tên gọi khác “tre trĩ”)
Cây tre sọc vàng thuộc họ Cỏ (Poaceae), được gây trồng ở Việt Nam từ rất lâu. Cây mọc thành bụi, cao 6 – 12 m. Thân có đốt cách xa nhau đều đặn, lóng có vách dày. Thân và cành, nhánh đều có màu vàng tươi với những sọc xanh dọc theo long. Lóng dài 20 – 30cm, vòng mo rõ, vòng rễ hơi gổ lên, gốc mang nhiều rễ nổi. Thân phân cành thấp. Thường ở mỗi đốt nảy ra 3 cành chính. Mo phủ đầy lòng. Lá mo hình tam giác, có gân song song nổi rõ. Lá thuôn, hình ngọn giáo, gốc tròn, cuống ngắn. Cụm hoa dạng chùm rộng. Bông nhỏ, dẹt, nhọn, xếp 2 chiếc ở một chỗ.
Cây tre vàng sọc được ưa chuộng trồng làm cảnh, có thể trồng chậu trang trí trong nhà hoặc trồng làm hàng rào dọc bờ tường nhà.
9. Tre bụng phật
Tre bụng phật thuộc họ Hòa thảo, được trồng nhiều ở Trung Quốc. Tre bụng phật mọc cụm, có hình dáng đẹp, kích thước trung bình. Thân cây thường cao 4 – 6m, ngọn uốn cong. Thân màu xanh thẫm, sáng bóng. Lóng dài 4 – 10cm, ít khi dài hơn, phình to ở phần dưới (hình chiếc bình). Phần phình to có đường kính đến 10 – 12cm. Ba bốn đốt sát mặt đất thường có rễ nhỏ. Thân non màu hoàn toàn xanh lá cây. Vách thân dày 1,2 – 1,75cm. Mo chết trên thân. Bẹ mo có đáy dưới rộng 12,5cm, cao khoảng 10cm, đáy trên rộng 8,5cm. Mặt ngoài phủ lông mềm, nằm, màu hung.Phiến lá dài 24 – 26,5cm và rộng 2,5 – 3cm. Gốc lá gần tròn, đỉnh lá nhọn. Gân lá 6 đôi. Hai mép có răng cưa nhỏ, sắc. Lưỡi lá cao 0,1cm; tai lá nhỏ, rộng 0,15cm, cao 0,1cm; thấp dần từ ngoài vào trong. Tai lá mang 4 đôi lông ngắn, màu trắng, dài 0,1cm. Cuống lá dài 0,4cm; rộng 0,25cm.
Loài tre này trồng làm cảnh là chính, đôi khi thân được dùng làm đồ thủ công mỹ nghệ.
10. Trúc cần câu
Trúc cần câu thuộc họ hòa thảo,được trồng nhiều ở Hà Giang, Cao Bằng Việt Nam và một số nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên.
Thân trúc ngầm đơn trục,các đốt của thân ngầm dài 2 – 4cm, đường kính 1cm, tròn hoặc hơi dẹt, gần như đặc (lỗ rỗng chừng 1mm). Thân cao 5 – 10m (có thể tới 15m), đường kính 2 – 4cm. Các lóng phía gốc dài 4 – 16cm, phía trên dài 30 – 35cm, tròn phía nang cành có răng dọc.Vòng mo và vòng thân đều nổi gờ lên rõ rệt. Mo mỏng mặt ngoài không có lông hoặc chỉ có ít lông ở phía trên, có những vạch và những điểm màu nâu sáng. Tai mo rõ ràng có lông dài màu tím sẫm. Lá mo nhỏ, hình ngọn giáo, đầu nhọn dần, thường chỉ dài bằng 1/4 chiều dài của bẹ mo. Cành chính có phấn trắng. Các lóng ở phía gốc cành dài 2 – 4cm, hình thoi 3 cạnh hoặc 4 cạnh, độ rỗng nhỏ.
Đây là loại trúc quý nên thân trúc thường dùng làm làm cần câu, gậy trượt tuyết, cán ô, trồng làm cảnh.
11. Trúc sào
Trúc sào thuộc họ Hòa thảo (Poaceae), được trồng nhiều ở Bắc Kạn, Hà Giang nơi có đồng bào Dao, Tày, Nùng sinh sống- khu vực có khí hậu á nhiệt đới vùng núi cao 400 – 1400m so với mực nước biển. Trúc sào mọc tản, cây cao 13 – 15m, đường kính 5 – 8cm hoặc hơn; lóng dài 20 – 30cm, lóng tròn hoặc ở phía mang cành xẻ rãnh, vách thân dày 0,6cm, thân khí sinh đứng thẳng, không cong rủ. Mỗi đốt có hai cành (một số đốt phía dưới có một cành) gồm một cành to và một cành nhỏ hơn (các cành thứ cấp cũng một to, một nhỏ). Bẹ mo hình chuông cao, đỉnh hẹp, cao 20cm, đáy rộng 9cm. Mo mỏng, gân dọc nổi rõ, mặt ngoài có nhiều lông cứng màu nâu. Tai mo phát triển, mép có lông viền thô, đầu bẹ mo rất hẹp. Phiến mo bé, hình tam giác, dài chỉ bằng 1/5 chiều dài bẹ mo. Phiến lá thuôn dài, nhẵn hoặc có lông ở gốc, dài 14 – 22cm, rộng 1,5 – 2,0cm, đầu lá nhọn, gốc có hình nêm hơi tù. Hai bên mép có răng sắc
Trúc sào cũng là loài trúc quý nên dùng làm nhà cửa, đóng bàn ghế, làm đòn gánh, đan lát, làm bột giấy và gần đây trúc sào được khai thác cho sản xuất đũa và mành trúc xuất khẩu.
12. Trúc vuông
Trúc vuông thuộc họ Hòa thảo, sinh sống ở các sườn núi, đỉnh núi và thung lũngcác tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn Việt Nam và Trung Quốc. Thân tre mọc tản, cao 3 – 8m, rộng 1 – 5cm, lóng dài 8 – 20cm, vuông cạnh, vách dày, vỏ nháp. Vòng mo và vòng rễ nổi rõ. Những đốt phía gốc có rễ khí sinh dạng gai nhọn. Mỗi mắt mang 3 cành, về phía ngọn số cành nhiều hơn, các mắt phía gốc không rõ. Lá hình thuôn, mác, dài 8 – 20cm, rộng 1 – 2cm, đầu nhọn. Mo nang mỏng, hình tam giác, phía ngoài phủ nhiều lông, đặc biệt là ở phía đầu và mép. Tai mo không rõ. Bông nhỏ mang 4 – 6 hoa, màu vàng.
Đây là loài trúc hiếm, số lượng ít nên được bảo vệ trong tự nhiên, không chặt phá và thường được trồng làm cây cảnh hoặc do thân vuông , thẳng nên trước đây dùng để ghép sàn nhà.